Giá trị chữa bệnh của động vật hoang dã thấp và rủi ro cao. Sự phát triển của các sản phẩm thảo dược và nhân tạo có thể giúp giải quyết cuộc khủng hoảng trong ngành

“Tổng cộng có 12.807 loại dược liệu Trung Quốc và 1.581 loại thuốc thú y, chiếm khoảng 12%. Trong số các tài nguyên này, có 161 loài động vật hoang dã đang bị đe dọa. Trong số đó, sừng tê giác, xương hổ, xạ hương và bột mật gấu được coi là những dược liệu quý hiếm từ động vật hoang dã”. Tiến sĩ Sun Quanhui, nhà khoa học của Hiệp hội Bảo vệ Động vật Thế giới, cho biết tại hội thảo chuyên gia năm 2020 về “Y học”, số lượng một số loài động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng như tê tê, hổ và báo đã giảm đáng kể do nhu cầu về thuốc chữa bệnh. cho nhân loại” vào ngày 26 tháng 11.

Trong những năm gần đây, do lợi ích thương mại và thương mại quốc tế thúc đẩy, các loài động vật hoang dã quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng nhìn chung phải đối mặt với áp lực sinh tồn lớn hơn và nhu cầu tiêu thụ khổng lồ của y học cổ truyền là một trong những lý do quan trọng dẫn đến sự tuyệt chủng của chúng.

Sun nói: “Tác dụng chữa bệnh của động vật hoang dã thực sự đã bị cường điệu hóa. Trước kia động vật hoang dã không dễ kiếm được nên dược liệu tương đối khan hiếm, nhưng điều đó không có nghĩa là tác dụng chữa bệnh của chúng là thần kỳ. Một số tuyên bố thương mại sai sự thật thường lợi dụng sự khan hiếm của thuốc động vật hoang dã làm điểm bán hàng, đánh lừa người tiêu dùng để mua các sản phẩm liên quan, điều này không chỉ đẩy mạnh hoạt động săn bắn và nuôi nhốt động vật hoang dã mà còn thúc đẩy nhu cầu về động vật hoang dã làm thuốc.

Theo báo cáo, dược liệu Trung Quốc bao gồm thảo dược, thuốc khoáng và thuốc động vật, trong đó thuốc thảo dược chiếm khoảng 80%, có nghĩa là hầu hết tác dụng của thuốc dành cho động vật hoang dã có thể được thay thế bằng nhiều loại thuốc thảo dược Trung Quốc. Vào thời cổ đại, thuốc từ động vật hoang dã không có sẵn nên chúng không được sử dụng rộng rãi hoặc đưa vào nhiều công thức nấu ăn thông thường. Niềm tin của nhiều người về thuốc từ động vật hoang dã bắt nguồn từ quan niệm sai lầm “sự khan hiếm là có giá trị” rằng thuốc càng hiếm thì càng hiệu quả và càng có giá trị.

Do tâm lý người tiêu dùng này, mọi người vẫn sẵn sàng trả nhiều tiền hơn cho các sản phẩm động vật hoang dã từ tự nhiên vì họ tin rằng chúng tốt hơn động vật nuôi, đôi khi động vật hoang dã nuôi đã được bán trên thị trường với mục đích làm thuốc. Do đó, sự phát triển của ngành chăn nuôi động vật hoang dã để làm dược phẩm sẽ không thực sự bảo vệ được các loài có nguy cơ tuyệt chủng và sẽ làm tăng thêm nhu cầu về động vật hoang dã. Chỉ bằng cách giảm nhu cầu tiêu thụ động vật hoang dã, chúng ta mới có thể bảo vệ hiệu quả nhất các loài động vật hoang dã đang bị đe dọa.

Trung Quốc luôn coi trọng việc bảo vệ các loài động vật hoang dã làm thuốc có nguy cơ tuyệt chủng. Trong danh mục dược liệu hoang dã được nhà nước bảo vệ trọng điểm, 18 loại dược liệu được nhà nước bảo vệ trọng điểm được liệt kê rõ ràng, chia thành dược liệu hạng nhất và hạng hai. Đối với các loại thuốc động vật hoang dã, cũng quy định các biện pháp sử dụng và bảo vệ dược liệu loại I, loại II.

Ngay từ năm 1993, Trung Quốc đã cấm buôn bán và sử dụng sừng tê giác và xương hổ làm thuốc, đồng thời loại bỏ các dược liệu liên quan ra khỏi dược điển. Mật gấu đã bị loại khỏi dược điển vào năm 2006 và tê tê bị loại khỏi ấn bản mới nhất vào năm 2020. Trước tình hình dịch bệnh COVID-19, Quốc hội Nhân dân Toàn quốc (NPC) đã quyết định sửa đổi Luật Bảo vệ Động vật hoang dã của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) lần thứ hai. Ngoài việc cấm tiêu thụ động vật hoang dã, nó sẽ tăng cường phòng chống dịch bệnh và giám sát thực thi pháp luật đối với ngành dược phẩm động vật hoang dã.

Và đối với các công ty dược phẩm, không có lợi thế nào trong việc sản xuất và bán thuốc cũng như các sản phẩm y tế có chứa thành phần từ động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng. Trước hết, có một cuộc tranh cãi lớn về việc sử dụng động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng làm thuốc. Thứ hai, việc tiếp cận nguyên liệu không đạt tiêu chuẩn dẫn đến chất lượng nguyên liệu không ổn định; Thứ ba, khó đạt được tiêu chuẩn sản xuất; Thứ tư, việc sử dụng kháng sinh và các loại thuốc khác trong quá trình nuôi trồng gây khó khăn cho việc đảm bảo chất lượng nguyên liệu động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng. Tất cả những điều này đều mang lại rủi ro lớn cho triển vọng thị trường của các doanh nghiệp liên quan.

Theo báo cáo “Tác động của việc từ bỏ các sản phẩm động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng đối với các công ty” do Hiệp hội bảo vệ động vật thế giới và Pricewaterhousecoopers công bố, một giải pháp khả thi là các công ty có thể tích cực phát triển và khám phá các sản phẩm thảo dược và tổng hợp để thay thế các sản phẩm động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng. Điều này không chỉ làm giảm đáng kể rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp mà còn giúp hoạt động của doanh nghiệp bền vững hơn. Hiện nay, các chất thay thế cho động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng để sử dụng làm thuốc như xương hổ nhân tạo, xạ hương nhân tạo và mật gấu nhân tạo đã được bán trên thị trường hoặc đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng.

Mật gấu là một trong những loại thảo dược được sử dụng rộng rãi nhất đối với các loài động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều loại thảo mộc Trung Quốc có thể thay thế mật gấu. Xu hướng tất yếu trong sự phát triển trong tương lai của ngành dược phẩm là từ bỏ động vật hoang dã và tích cực khám phá thuốc thảo dược và các sản phẩm tổng hợp nhân tạo. Các doanh nghiệp liên quan cần tuân thủ định hướng chính sách quốc gia về bảo vệ động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng làm thuốc, giảm sự phụ thuộc vào động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng làm thuốc và liên tục nâng cao khả năng phát triển bền vững đồng thời bảo vệ động vật hoang dã có nguy cơ tuyệt chủng làm thuốc thông qua chuyển đổi công nghiệp và đổi mới công nghệ.


Thời gian đăng: 27-07-2021